Quá tải sắt là gì? Các công bố khoa học về Quá tải sắt
Quá tải sắt (hay còn gọi là sự tích tụ sắt) là một tình trạng trong cơ thể khi có quá nhiều sắt tích tụ trong các mô và cơ quan khác nhau. Đây thường là kết quả...
Quá tải sắt (hay còn gọi là sự tích tụ sắt) là một tình trạng trong cơ thể khi có quá nhiều sắt tích tụ trong các mô và cơ quan khác nhau. Đây thường là kết quả của một lượng sắt quá lớn được cung cấp từ năng lượng dinh dưỡng hàng ngày hoặc bị hấp thu không hiệu quả. Quá tải sắt có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm thiếu máu, tổn thương cơ quan nội tạng, tổn thương gan và xương, và các vấn đề về tim mạch.
Khi quá tải sắt xảy ra, có thể có nhiều nguyên nhân, bao gồm:
1. Thừa nạp sắt từ lượng ăn uống: Sự tiếp xúc liên tục với lượng sắt quá lớn thông qua thực phẩm và các loại thực phẩm bổ sung có chứa sắt cao có thể dẫn đến quá tải sắt. Điều này thường xảy ra khi người ta dùng nhiều loại thực phẩm giàu sắt, như: hạt đậu (đen, đỏ, và xanh lá cây), các loại hạt nguồn gốc từ cây lúa mì, cá, thịt đỏ, gan, và một số loại rau xanh.
2. Hấp thu sắt không hiệu quả: Sự hấp thu sắt không hiệu quả có thể dẫn đến tích tụ sắt trong cơ thể. Chẳng hạn, thường trong trường hợp bệnh thalassemia hoặc bệnh trao đổi sắt không bình thường có thể làm giảm khả năng hấp thụ sắt từ thực phẩm.
3. Sự cân bằng không tốt: Một số bệnh lý trong cơ thể như xơ gan, viêm gan mạn tính, thoái hóa cơ gan hoặc bệnh thận gây ra mất cân bằng trong quá trình vận chuyển sắt trong cơ thể. Điều này dẫn đến quá tải sắt, vì mất cân bằng trong quá trình lưu thông sắt trong cơ thể.
Dấu hiệu và triệu chứng của quá tải sắt thông thường bao gồm mệt mỏi, da và niêm mạc xám hoặc vàng, buồn nôn, chán ăn, đau đầu, đau bụng, tiểu đường không kiểm soát được, và hư tổn cơ quan nội tạng như gan, tim, tụy và xương.
Để xác định quá tải sắt và chẩn đoán chính xác, bác sĩ thường sẽ yêu cầu một số xét nghiệm như xét nghiệm máu, đánh giá mức độ sắt trong huyết tương và xác định nồng độ ferritin, một protein chứa sắt quan trọng trong cơ thể.
Khi quá tải sắt xảy ra, sắt sẽ bắt đầu tích tụ không đáng có trong các mô và cơ quan khác nhau của cơ thể. Nhưng chu kỳ sắt tự nhiên trong cơ thể vẫn tiếp tục, và không có cơ chế tự nhiên để loại bỏ sắt thừa.
Các triệu chứng của quá tải sắt:
1. Thiếu máu: Một trong những triệu chứng phổ biến của quá tải sắt là thiếu máu. Sắt thừa sẽ tích tụ trong mô môi trường nội tạng, gây ra thiếu máu do không đủ sắt để tạo ra hồng cầu mới và cung cấp oxy đúng mức.
2. Tổn thương cơ quan nội tạng: Sắt tích tụ trong các cơ quan nội tạng như gan, tim, tụy, tuyến giáp và tuyến ngoại vi. Điều này có thể gây ra tổn thương cơ quan và làm suy yếu chức năng của chúng.
3. Hư tổn gan: Quá tải sắt có thể gây hư tổn và viêm gan. Gan là nơi chứa lượng sắt lớn nhất trong cơ thể, và sự tích tụ sắt dư thừa có thể gây ra viêm gan và hư hỏng cấu trúc gan.
4. Hư tổn xương: Quá tải sắt cũng có thể gây tổn thương cho hệ xương. Sắt thừa sẽ tích tụ trong xương và gây ra tình trạng xương thủy tinh (osteoporosis) và làm tăng nguy cơ gãy xương.
5. Vấn đề tim mạch: Quá tải sắt có thể gây ra vấn đề tim mạch nghiêm trọng như suy tim, bệnh thất bại tim, và bất thường nhịp tim.
Để điều trị quá tải sắt, bác sĩ có thể chỉ định việc điều trị bằng cách loại bỏ một lượng nhất định sắt từ cơ thể bằng cách tiến hành quy trình gọi là thủy phân sắt (phlebotomy), hoặc sử dụng các thuốc chống oxi hóa (như chelators) để giảm lượng sắt trong cơ thể.
Quá tải sắt là một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự giám sát và điều trị chuyên môn. Nếu bạn nghi ngờ mình bị quá tải sắt, hãy tìm kiếm sự tư vấn và chẩn đoán từ bác sĩ chuyên khoa để nhận được sự hỗ trợ và điều trị phù hợp.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "quá tải sắt":
Hiệp hội Độc tính học Bệnh lý đã triệu tập một nhóm làm việc để đánh giá các thực tiễn hiện tại liên quan đến trọng lượng cơ quan trong các nghiên cứu độc tính. Một cuộc khảo sát đã được phân phối cho các công ty dược phẩm, thú y, hóa chất, thực phẩm/dinh dưỡng và sản phẩm tiêu dùng tại châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Các phản hồi đã được tổng hợp để xác định các cơ quan thường xuyên được cân đo cho các loại nghiên cứu khác nhau ở loài gặm nhấm và không gặm nhấm, so sánh các phương pháp cân đo cơ quan, cung cấp quan điểm về giá trị của trọng lượng cơ quan và xác định các nhà khoa học chịu trách nhiệm về việc giải thích dữ liệu trọng lượng cơ quan. Dữ liệu đã được đánh giá tổng thể cũng như theo loại hình ngành và vị trí địa lý. Các tài liệu hướng dẫn quy định mô tả các thực tiễn cân đo cơ quan thường có sẵn, tuy nhiên chúng có sự khác biệt nhất định phụ thuộc vào loại hình ngành và cơ quan quy định. Trong khi các nhà khảo sát đồng lòng cho rằng trọng lượng cơ quan là một công cụ sàng lọc tốt để xác định các tác động liên quan đến điều trị, ý kiến về trọng lượng cơ quan nào là có giá trị nhất lại khác nhau. Gan, thận và tinh hoàn thường được cân và thường được coi là hữu ích bởi hầu hết các nhà khảo sát. Các cơ quan khác cũng thường được cân bao gồm não, tuyến thượng thận, buồng trứng, tuyến giáp, tử cung, tim và lách. Phổi, hạch bạch huyết và các cơ quan sinh dục khác ít được cân trong các nghiên cứu định kỳ, nhưng thường được cân trong các nghiên cứu chuyên biệt như nghiên cứu hít phải, miễn dịch độc tính và sinh sản. Tỷ lệ trọng lượng cơ quan so với trọng lượng cơ thể thường được tính toán và được coi là hữu ích hơn khi trọng lượng cơ thể bị ảnh hưởng. Tỷ lệ trọng lượng cơ quan so với trọng lượng não được tính toán bởi hầu hết các công ty Bắc Mỹ, nhưng hiếm khi theo như các phản hồi từ đại diện của các công ty sản phẩm thú y hoặc châu Âu. Các phân tích thống kê thường được thực hiện bởi hầu hết các nhà khảo sát. Các bác sĩ bệnh lý đã thực hiện việc giải thích dữ liệu trọng lượng cơ quan cho phần lớn các ngành.
Đã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện để kiểm tra tác động trực tiếp của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đối với hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, nhưng mối quan hệ trực tiếp này dường như là giả tạo và không chính xác. Do đó, mục đích chính của nghiên cứu này là khám phá vai trò trung gian của hình ảnh doanh nghiệp và sự hài lòng của khách hàng trong mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và hiệu quả tài chính. Dữ liệu được thu thập từ 229 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Pakistan bằng cách sử dụng kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Mô hình phương trình cấu trúc đã được sử dụng cho mô hình đo lường và kiểm tra giả thuyết. Kết quả cho thấy rằng hình ảnh doanh nghiệp và sự hài lòng của khách hàng có vai trò trung gian một phần trong mối liên hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và hiệu quả tài chính. Nghiên cứu kết luận rằng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp thông qua việc phát triển hình ảnh tích cực giữa các bên liên quan và giảm chi phí tổng thể. Nghiên cứu này sẽ giúp ban quản lý các tổ chức nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
Một loài copepod duy nhất, Neocalanus plumchrus (Marukawa), chiếm phần lớn khối lượng sinh khối mesosoplankton ở Thái Bình Dương cận cực. Sự phân bố theo chiều dọc và chuỗi phát triển của nó đều có tính mùa vụ mạnh mẽ. Cùng nhau, chúng tạo ra một đỉnh sinh khối zooplankton ở tầng nước trên cùng hàng năm mạnh mẽ và hẹp (<60 ngày kéo dài) vào mùa xuân và đầu mùa hè. Tại Đài quan sát Đại dương P (50°N, 145°W), giai đoạn theo mùa của mức cực đại hàng năm này đã thay đổi mạnh mẽ giữa năm 1956 và hiện tại. Cả các quan sát chuỗi thời gian về tỷ lệ thành phần giai đoạn của N. plumchrus và các phép đo tổng sinh khối zooplankton ở tầng nước trên cùng đều tạo ra những bức tranh nhất quán về sự thay đổi này. Sự phát triển quần thể diễn ra rất muộn vào đầu những năm 1970 (điểm tối đa sinh khối vào giữa tháng Bảy đến cuối tháng Bảy), sớm vào cuối những năm 1950 (cuối tháng Năm - đầu tháng Sáu), và rất sớm vào những năm 1990 (đầu tháng Năm đến giữa tháng Năm). Sự thay đổi về thời gian này có mối tương quan mạnh mẽ với những dao động khí hậu đại dương quy mô lớn từ năm này sang năm khác và từ thập kỷ này sang thập kỷ khác, thể hiện qua các bất thường nhiệt độ mùa xuân trong lớp nước trộn bề mặt nơi mà các copepodites vị thành niên sinh sống và phát triển (r2 = 0.56, phát triển sớm hơn khoảng 60 ngày trong những năm ấm áp so với những năm lạnh). Tuy nhiên, sự thay đổi về thời gian phát triển quá lớn để chỉ được giải thích bằng việc tăng tốc độ phát triển sinh lý của từng cá thể. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân là sự khác biệt giữa các năm về tỷ lệ sống sót giữa các phần sớm và muộn của nhóm copepodite hàng năm.
Các cuộc hẹn bị bỏ lỡ là một hiện tượng phổ biến trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Vương quốc Anh, tuy nhiên ít có thông tin về lý do của việc này hoặc hậu quả của việc bỏ lỡ một cuộc hẹn. Bài viết này nhằm mục đích xác định các lý do cho việc bỏ lỡ các cuộc hẹn và liệu bệnh nhân bỏ lỡ cuộc hẹn có tư vấn với bác sĩ đa khoa (GP) sau đó hay không. Các mục tiêu phụ là so sánh tình trạng tâm lý bệnh lý và các cuộc hẹn trước đó với các GP giữa các đối tượng và nhóm so sánh.
Khảo sát bằng bảng hỏi gửi qua bưu điện và xem xét hồ sơ y tế theo triển vọng của bệnh nhân trưởng thành bỏ lỡ cuộc hẹn và nhóm so sánh đã tham dự cuộc hẹn trong một khoảng thời gian ba tuần ở bảy phòng khám đa khoa tại West Yorkshire.
Trong số 386 người bỏ lỡ cuộc hẹn, có 122 (32%) đã phản hồi. Trong số 386 người trong nhóm so sánh, có 223 (58%) phản hồi, dẫn đến 23 cặp điều tra đối chứng khớp nhau với dữ liệu đầy đủ. Hơn 40% cá nhân bỏ lỡ cuộc hẹn và tham gia khảo sát cho biết họ đã quên lịch hẹn và một phần tư cho biết họ đã cố gắng rất nhiều để hủy bỏ cuộc hẹn hoặc cuộc hẹn rơi vào thời điểm không thuận tiện. Một phần năm báo cáo rằng họ có trách nhiệm gia đình hoặc quá ốm để tham gia. Hơn 90% bệnh nhân bỏ lỡ cuộc hẹn đã tham khảo ý kiến trong vòng ba tháng và trong số đó, gần 60% đã tham khảo ý kiến cho vấn đề đã được dự kiến sẽ được trình bày trong cuộc tư vấn bị bỏ lỡ. Xác suất bỏ lỡ cuộc hẹn giảm dần với độ tuổi tăng lên và cao hơn ở những người đã bỏ lỡ ít nhất một cuộc hẹn trong 12 tháng qua. Tuy nhiên, ước lượng cho các so sánh giữa những người bỏ lỡ cuộc hẹn và nhóm so sánh không chính xác do tỷ lệ phản hồi thấp.
Bệnh nhân bỏ lỡ các cuộc hẹn có xu hướng trích dẫn các yếu tố từ phòng khám và sự quên của bản thân là lý do chính cho việc này, và hầu hết đều tham gia trong vòng ba tháng sau khi bỏ lỡ cuộc hẹn. Nghiên cứu này nổi bật lên một số tác động cho nghiên cứu trong tương lai. Cần phải thực hiện nhiều công việc hơn nữa để thu hút những người bỏ lỡ cuộc hẹn vào nghiên cứu một cách có ý nghĩa.
Nhiều nhân viên y tế đã bị nhiễm bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) ngay từ đầu dịch bệnh, gây ra thách thức lớn cho công tác kiểm soát dịch. Do đó, nghiên cứu này nhằm khám phá các con đường lây nhiễm được cảm nhận, các yếu tố ảnh hưởng, những thay đổi tâm lý-xã hội và quy trình quản lý đối với nhân viên y tế bị nhiễm COVID-19.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu cắt ngang, dựa trên một bệnh viện duy nhất. Chúng tôi đã tuyển mộ tất cả 105 nhân viên y tế đã xác nhận nhiễm COVID-19 tại Bệnh viện Zhongnan thuộc Đại học Vũ Hán từ ngày 15 đến 29 tháng 2 năm 2020. Tất cả người tham gia đã hoàn thành một bảng hỏi đã được xác thực. Đã nhận được sự đồng ý điện tử từ tất cả các người tham gia. Các nguyên nhân cảm nhận được của sự lây nhiễm, kiến thức và hành vi về phòng, chống lây nhiễm, thay đổi tâm lý, triệu chứng và điều trị đã được đo lường.
Giới thiệu. Thiếu máu tiếp tục là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (WRA) tại các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Lào PDR), nơi tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ vẫn cao. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tỷ lệ thiếu máu và các yếu tố liên quan ở WRA từ 15–49 tuổi tại Lào PDR. Phương pháp. Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu cắt ngang, sử dụng bộ dữ liệu Khảo sát Chỉ số Xã hội Lào II, năm 2017. Tổng cộng có 12,519 WRA được kiểm tra thiếu máu đã được đưa vào nghiên cứu này thông qua các phương pháp lấy mẫu đa tầng. Phân tích hồi quy logistic nhị phân được sử dụng để xác định các yếu tố liên quan đến thiếu máu. Kết quả. Trong số 12,519 phụ nữ, có 4,907 (39.2%) bị thiếu máu. Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy sống ở các tỉnh miền Trung (aOR: 2.16, 95% CI: 1.96–2.38), khu vực nông thôn (aOR: 1.1, 95% CI: 1.00–1.20), gia đình đông người với hơn 6 người (aOR: 1.14, 95% CI: 1.01–1.29), mang thai (aOR: 1.46, 95% CI: 1.22–1.74), có bất kỳ kết quả thai nghén không thuận lợi nào (aOR: 1.14, 95% CI: 1.03–1.25), nguồn nước uống kém (aOR: 1.24, 95% CI: 1.10–1.39), và cơ sở vệ sinh kém (aOR: 1.15, 95% CI: 1.03–1.28) có mối liên hệ đáng kể với nguy cơ thiếu máu. Ngược lại, bốn yếu tố có liên quan đến việc ngăn ngừa thiếu máu, gồm có độ tuổi từ 25–34 tuổi (aOR: 0.81, 95% CI: 0.74–0.90), trình độ giáo dục sau trung học (aOR: 0.76, 95% CI: 0.60–0.97), dân tộc H'Mông-Miền (aOR: 0.48, 95% CI: 0.39–0.59), và xem truyền hình gần như hàng ngày (aOR: 0.84, 95% CI: 0.75–0.95). Kết luận. Thiếu máu vẫn là một thách thức lớn về sức khỏe cộng đồng tại Lào PDR. Cần xem xét các can thiệp dựa trên sự khác biệt về địa lý, cải thiện nguồn nước an toàn và cơ sở vệ sinh, khuyến khích sử dụng chất bổ sung sắt trong thai kỳ, và giáo dục sức khỏe qua các phương tiện truyền thông đại chúng cho phụ nữ ở khu vực nông thôn.
Using stratospheric temperature profiles derived from GPS radio occultation (RO) measurements made by the German CHAMP satellite from June 2001 to May 2006, we studied the climatological behavior of atmospheric wave activity in the tropics. The wave potential energy,
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10